Trong giải tích, một trong các tính chất hỗ trợ tốt cho việc kiểm tra sự hội tụ là tính đơn điệu. Chẳng hạn, nếu dãy thỏa mãn
+ không giảm, nghĩa là
+ bị chặn trên, nghĩa là có số để
thì dãy đang xét hội tụ. Hơn nữa,
Với dãy đơn điệu, chẳng hạn đơn điệu tăng thực ra chỉ có thể xảy ra một trong hai trường hợp:
-) dãy bị chặn trên thì hội tụ đến giá trị hữu hạn;
-) dãy không bị chặn trên thì hội tụ đến
Ngoài ra, ta có thể mở rộng một chút cho dãy không nhất thiết đơn điệu ngay từ đầu, nghĩa là dãy thỏa mãn
+ có số tự nhiên để từ đó trở đi
Khi đó dãy này cũng có tính chất tương tự dãy đơn điệu tăng. Một cách tương tự các bạn có thể viết cho dãy đơn điệu giảm. Một ví dụ cho trường hợp như này, xét dãy Dãy này sẽ giảm từ
và bị chặn dưới bởi
Khi quan sát sự hội tụ của chuỗi có dạng
các kết quả của Abel và Dirichlet đều xuất hiện yêu cầu đơn điệu. Các yêu cầu này cần thiết vì nếu bỏ đi rất có thể kết luận của các kết quả này sai.
Chẳng với Định lý Dirichlet, xét chuỗi
:
+ chuỗi có dãy tổng riêng bị chặn bởi
+ dãy hội tụ về
nhưng không đơn điệu,
+ chuỗi ban đầu phân kỳ.
Với Định lý Abel xét chuỗi
+ chuỗi hội tụ,
+ dãy hội tụ về
nhưng không đơn điệu,
+ chuỗi ban đầu phân kỳ.
Với chuỗi đan dấu, tính đơn điệu trong dấu hiệu Leibniz cũng quan trọng. Ta xét ví dụ chuỗi
với thỏa mãn
+ dãy hội tụ về
nhưng không đơn điệu,
+ chuỗi ban đầu phân kỳ.
Tiếp đến ta quan sát giới hạn của hàm số. Thực chất giới hạn của dãy số là trường hợp riêng của giới hạn hàm số khi ta xét hàm xác định trên tập số tự nhiên và quan tâm đến giới hạn của hàm tại “điểm tụ” Ta bắt đầu với dạng tương tự,
+ lấy tập không bị chặn trên, nghĩa là có một dãy tăng thực sự gồm
mà
+ xét hàm đơn điệu tăng nghĩa là
khi
Khi đó, giống như dãy số, khi quan sát giới hạn tại của
chỉ có hai tình huống sau xảy ra:
+ hàm bị chặn trên, nghĩa là tập ảnh của nó
bị chặn trên, thì tồn tại giới hạn
– hàm không bị chặn trên, nghĩa là có một dãy gồm các
mà
thì dãy
là dãy tăng và
Trong cả hai trường hợp đều có
Cũng giống như dãy, các tính chất trên còn đúng cho dãy cuối cùng mới đơn điệu, bị chặn, nghĩa là có một số sao cho
+ hàm bị chặn trên và đơn điệu tăng trên tập
, nghĩa là có một số
để
, và
khi
thì tồn tại giới hạn
– hàm không bị chặn trên và đơn điệu tăng trên
, nghĩa là có một dãy gồm các
mà
, và
khi
thì dãy
là dãy tăng và
Các bạn thử tự viết cho trường hợp đơn điệu giảm. Chẳng hạn ta xét ví dụ sau
chỉ giảm khi và bị chặn dưới bởi
Một ví dụ nữa
Hàm này nói chung không đơn điệu cũng không bị chặn trên . Tuy nhiên khi
hàm
vừa đơn điệu giảm vừa bị chặn dưới bởi
Ta chuyển sang quan sát giới hạn của hàm tại điểm tụ
của
Ta chỉ quan sát hai trường hợp sau:
+) hàm đơn điệu tăng và
+) hàm đơn điệu giảm và
Các trường hợp khác để viết cho đẹp, ta cần tách bạch giới hạn trái và giới hạn phải tại Khi xét giới hạn trái hay phải thì nó trùng với một trong hai trường hợp sẽ xét ở đây. Tôi sẽ phát biểu cho trường đơn điệu tăng, trường hợp đơn điệu giảm xin dành bạn đọc.
Nếu có để
đơn điệu tăng trên
thì tồn tại giới hạn
Trong trường hợp bị chặn trên thì giới hạn trên hữu hạn. Ngược lại giới hạn trên là
Ta có thể thực hành kết quả trên qua ví dụ
và
Ta chuyển qua tính liên tục. Như đã biết hàm liên tục thì
là tập liên thông và có GTLN và GTNN. Nói cách khác ta có
Câu hỏi: điều ngược lại có đúng không? Nghĩa là, nếu có
sao cho
thì
có liên tục hay không. Câu trả lời: nói chung không. Chẳng hạn ta xét ví dụ
khi
khi
Hàm này gián đoạn loại 1 tại và
Vậy điều kiện gì sẽ giúp hàm liên tục? Trả lời: tính đơn điệu. Ta có kết quả
hàm đơn điệu và có hai số
để
thì
liên tục trên
Từ kết quả này không khó để chứng minh kết quả sau.
đơn điệu tăng thực sự, và
Khi đó
là một đồng phôi, nghĩa là nó là song ánh và hàm ngược cũng như bản thân nó đều liên tục.
Trong hàm hai biến, xét hàm Như đã biết hàm liên tục thì sẽ liên tục theo từng biến. Điều ngược lại nói chung không đúng. Chẳng hạn xét ví dụ
Hàm liên tục theo từng biến và không liên tục tại
vì
Vậy điều kiện gì để hàm liên tục theo từng biến trên là hàm liên tục. Các bạn thử tự kiểm tra khi có thêm điều kiện:
đơn điệu theo biến
Ta tiếp tục chuyển sang tính khả tích. Trước hết, một hàm đơn điệu trên
khả tích trên
Lưu ý lúc này hàm
trên
bị chặn bởi
và
Vấn đề tiếp theo: hàm giới hạn của một dãy hàm
khả tích trên
có là hàm khả tích không? Hơn nữa, mối quan hệ giữa dãy các tích phân
và tích phân của hàm giới hạn
như nào?
Với tích phân Riemann, người ta mới giải quyết được phần sau. Cụ thể
Nếu là các hàm liên tục thỏa mãn:
với mỗi dãy
đơn điệu giảm và hội tụ đến
thì
Điều này có được nhờ Định lý Dini về sự hội tụ đều:
Với các giả thiết trên có
hay nói cách khác dãy hàm hội tụ đều đến
trên
Trong tích phân Lebesgue, mọi chuyện có vẻ dễ hơn với Định lý hội tụ đơn điệu của Beppo Levi như sau.
Dãy hàm đo được không âm đơn điệu tăng, nghĩa là
, và hội tụ điểm đến hàm
trên
. Khi đó hàm giới hạn đo được và
Dấu bằng ở trên được hiểu nếu giới hạn vế trái tồn tại thì hàm giới hạn khả tích Lebesgue và tích phân Lebesgue trên
của nó chính là giới hạn của dãy tích phân vế trái.
Quay trở lại tích phân Riemann, ta có thể giảm nhẹ điều kiện đơn điệu và hội tụ điểm bằng điều kiện hội tụ đều. Khi xét sự hội tụ điểm cũng như hội tụ đều của chuỗi hàm dạng
ta cũng có các Định lý Abel và Dirichlet với các điều kiện về tính đơn điệu không bỏ được.
Ngoài tích phân Riemann và tích phân Lebesgue ta còn học tích phân suy rộng. Khi nghiên cứu sự hội tụ của tích phân suy rộng dạng
ta lại tiếp tục gặp Abel và Dirichle với tính đơn điệu không bỏ được.
Ta chuyển sang tính khả vi. Ta gặp một kết quả khá sâu sắc: hàm là đơn điệu thì nó khả vi hầu khắp nơi. Chứng minh của kết quả này khá khó. Các bạn có thể tham khảo trong luận văn của Vũ Công Viên
http://bomongiaitich.files.wordpress.com/2012/12/luan_van.pdf
Trong luận văn của Vũ Công Viên cũng đưa ra kết quả của Fubini về việc chuyển dấu đạo hàm qua dấu tổng. Nói cách khác, Định lý Fubini nhằm trả lời câu hỏi: chuỗi gồm các hàm khả vi hội tụ đến một hàm thì hàm giới hạn này có khả vi không? Nếu khả vi thì đạo hàm của nó liên quan gì đến chuỗi các đạo hàm?
Trong Giải tích năm thứ nhất ta cần kiểm tra khá nhiều điều kiện:
+ chuỗi hàm hội tụ tại một điểm nào đó trong tập đang xét,
+ chuỗi đạo hàm hội tụ đều trên tập đang xét.
Điều kiện chuỗi đạo hàm hội tụ đều khá chặt. Định lý Fubini đơn giản hóa như sau:
Xét chuỗi với
+ là các hàm đơn điệu tăng,
+ chuỗi hội tụ điểm đến hàm
trên
Khi đó khả vi hầu khắp nơi và
trên